Tên di sản : Nhà thờ chi III dòng họ Nguyễn Đức

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di sản : Di tích kiến trúc nghệ thuật

Sô quyết định : Số 3250/QĐ-UBND

Giới thiệu

Cổng vào nhà thờ được phục dựng với kiểu dáng mái cong, thanh thoát quy mô rất khiêm nhường.

Bốn chữ Hán tô sắc vàng nổi rõ trên nền màu đen của bức đại tự, kéo hết chiều rộng của cổng, phía dưới vòm mái cong: Từ đường chi III. Đôi câu đối chữ Hán tô màu đen, trên nền vàng, chạy hết chiều cao hai cột cổng, đại ý: Gia tộc Nguyễn Đức luôn giữ đạo hiếu với tổ tiên – phúc ấm tổ tiên được lưu giữ lâu dài. Sau cánh cổng tới khoảng sân lát gạch với chiều rộng 4m, chiều dài theo chiều dọc nhà thờ 11,4m. Một mảnh vườn nhỏ ở phía sau và đầu hồi nhà thờ được trồng cây xanh tốt.

Nhà thờ có ba gian hướng về phía Đông Nam. Bốn cột hiên gồm hai cột lim đỡ hai kẻ bẩy ở hai đầu hồi, hai cột đá đỡ hai kẻ bẩy gian giữa. Hai cột đá là loại đá màu trắng nguyên khối, với chiều cao gần 2m, hình khối hộp có 4 mặt, chia thành 3 phần: Phần đế, thân cột và đấu đỡ đầu dư. Hai cột đá được cấu tạo theo nguyên tắc “Thượng thu hạ thách”, nghĩa là đế cột mỗi cạnh dài 35cm, cột thu nhỏ dần đến đỉnh thân cột còn mỗi cạnh dài 27cm, tiếp đến phần đấu kê xoè rộng ra ngoài 4 mặt cột, tạo thế vững chắc cho công trình. Hai cột hiên ở vị trí gian giữa chịu tác động mạnh mẽ của nắng mưa từ 3 hướng, nên chủ nhân của công trình đã lựa chọn vật liệu đá nguyên khối. Trong điều kiện khả năng kinh tế của một gia đình nông dân cách ngày nay hơn hai thế kỷ, chế tạo 2 cột đá hẳn phải là là sự đầu tư không nhỏ về công của. Sử dụng vật liệu đá tự nhiên làm cột đòi hỏi sự chọn lọc rất nghiêm ngặt: đá không được có gân rạn nứt. Sử dụng đá nguyên khối làm cột thường thấy trong các công trình tín ngưỡng cộng đồng như đình, chùa, do huy động được sức mạnh của cả làng, cả tổng, ít thấy ở các nhà dân. Người chủ xây dựng nhà thờ Nguyễn Đức (chi III) rõ ràng muốn để lại cho thế hệ con cháu sau này một ngôi nhà bền vững, chịu được sự thử thách của thời gian.

Nhà thờ chi III dòng họ Nguyễn Đức kết cấu theo kiểu nhà truyền thống của người Việt để phù hợp với nếp sống sinh hoạt mang tính cộng đồng dòng họ, làng xã của nền kinh tế tiểu nông và chịu đựng được sự khắc nghiệt của khí hậu nhiệt đới, nắng mưa nhiều, thiên tai lụt lội năm nào cũng có. Hai mươi cột đặt trên những chân tảng đá, chia thành 4 hàng đỡ 4 vì. Hai hàng gian giữa trốn cột, chỉ có mỗi hàng 4 cột.

Hai hàng cột đỡ hai vì đầu hồi phía Tây Nam và Đông Bắc, mỗi hàng 6 cột, ở vị trí tách biệt với tường hồi khoảng 40cm, nhằm giảm thiểu tác động xấu do mưa nắng thẩm thấu qua tường hồi vào. Ta thường gặp ở nhiều ngôi nhà có kết cấu truyền thống như ngôi nhà này, nếu nới rộng khoảng cách hai tường hôi với hai vì, hệ thống hoành tải (đòn tay) gác vào tường đốc. Công trình sẽ có 3 gian 2 chái tạo thành hai buồng kín đáo.

Gian giữa đặt bàn thờ, hai gian tiếp giáp gian thờ kê giường ngủ (thường để đàn ông, con trai trong gia đình nghỉ ngơi).

Hai gian buồng (hai gian chái) được nối thông ra 3 gian nhà ngoài bằng một lối đi nhỏ có cánh cửa đóng khoá. Buồng là nơi ngủ của phụ nữ (vợ hoặc con gái, con dâu), cũng là nơi để của cải vật dụng trong gia đình.

Như vậy, ngôi nhà truyền thống của con người Việt có hai chức năng: Nơi ở của một gia đình gồm hai, ba thế hệ, cũng là nơi thờ cúng gia tiên (gian chính giữa).

Nhưng nhà thờ chi III dòng họ Nguyễn Đức không còn đảm nhận tất cả chức năng là nơi ở, nơi để của cải (lúa gạo, vật dụng....) của một gia đình tiểu nông mà chức năng thờ cúng chiếm vai trò chủ đạo của lối thiết kế. Ba gian có 3 chuông cửa, với 12 cánh kiểu bức bàn kéo hết chiều dọc nhà, khi mở, ánh sáng tự nhiên tràn ngập khắp mọi nơi, có tác dụng lưu không khí, tránh ẩm mốc phá hoại. Riêng ngưỡng cửa vẫn giữ lại yếu tố của của kiểu nhà thông thường: Ngưỡng thấp, tiện việc ra vào (khác với ngưỡng cửa đình, chùa, đền rất cao).

Bức độ che kín từ hoành tải qua xà hạ xuống sát cạnh trên ba chuông cửa, ăn mộng vào 4 cột quân, được đóng khung viền, gắn điểm những bông hoa có khối chạm nổi để trang trí, đưa lại nhận thức về mặt thẩm mỹ về sự liên kết chắc chắn giữa mái nhà với hệ thống cửa ở mặt chính diện công trình.

Bốn vì nóc kết cấu kiểu chồng rường gồm 3 con rường đặt chồng lên nhau qua những cột rường có đấu ke. Tại đầu các con rường chạm hoa văn hình Đao, Mác biểu tượng của chớp trong lễ cầu mưa của cư dân nông nghiệp. Tại các điểm chót các câu đầu, kẻ chuyền cũng chạm nhắc lại mô típ như vậy. Phần còn lại của các xà, câu đầu kẻ chuyền được bào trơn, soi gờ thẳng giản đơn. Riêng phần giữa các con rường ở hai vì đầu hồi được liệt ván, vẽ hình bát quái. Bốn kẻ bẩy ở hiên hè được chạm hình hoa lá cách điệu trong khung viền nổi.

Hoành tải gỗ lim hình khối 4 cạnh, được xẻ thẳng tắp, các rui gỗ lim có cùng độ dày, rộng, tạo cho mái nhà độ phẳng dốc, không bị mưa dột. Nhà thờ chi III dòng họ Nguyễn Đức đã qua hai lần sửa chữa, nhưng trong thời gian hơn hai thế kỷ tồn tại, mặc dù chịu tác động mạnh mẽ của môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội, nhưng công trình – ngôi nhà cổ này vẫn đứng vững trong dáng vẻ cổ kính và khiêm nhường bên cạnh những ngôi nhà “Tay” nhiều tầng, vươn cao trong dáng ngạo nghễ được xây dựng trong những năm đất nước đổi mới. Những ngôi nhà cổ như nhà thờ chi III dòng họ Nguyễn Đức còn sót lại trên đất Quảng Thịnh nói riêng, trên địa bàn cả tỉnh không còn nhiều.

Chức năng của ngôi nhà cũng có thời điểm bị thay đổi, yếu tố thờ cúng bị lu mờ, thay vào đó nhà thờ được sử dụng vào mục đích khác. Năm 1954 là nơi ở của bộ đội thương binh Miền Nam tập kết- nhà ở tập thể, khiến cho công trình bị xuống cấp, các câu đối, gia phả bị vứt bỏ. Nhà thờ là nơi hội họp, đọc báo cách mạng của cán bộ Việt Minh, là trụ sở của Uỷ ban hành chính kháng chiến, trụ sở của Đảng uỷ xã.1ục nước ngập khi lũ lụt.

Như vậy, nhà thờ chị III dòng họ Nguyễn Đức là nơi đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử cách mạng có ý nghĩa trong phạm vi xã, huyện.

Những hiện vật có trong di tích:

Hiện nay, một số hiện vật cổ còn lưu giữ tại nhà thờ gồm:

Bức đại tự treo trước bàn thờ gian giữa là tấm gỗ có chiều dài bằng 4/5 chiều rộng gian nhà, viết 3 chữ Hán có kích thước lớn màu vàng: Tự Kim Cổ, trên nền sơn màu đen, 4 góc kẻ viền hoa văn.

Đôi câu đối treo ở hai cột cái trước bàn thờ. Chữ trên câu đối tô màu đen trên nền gấm vàng, chạm viền hai cạnh dọc câu đối, hai bức chạm nổi hoa văn trong khung viền hình vuông ở hai đầu với nét chạm thanh mảnh rất tinh xảo.

Một long khám gỗ, phía trong đặt ngai thờ. Long khám được chạm kín phân bệ và chân quỳ, gắn lèo chạm nổi ở cạnh trên long khám. Trong long khám có đặt linh vị những người được thờ.

Một chậu sứ cổ Trung hoa hình lục lăng miệng lợi chậu, đế xoè, mỗi mặt chậu vẽ một cảnh sơn thuỷ màu men xanh trên nền men trắng, chậu cổ được sử dụng làm bát hương ở bàn thờ gian chính.

Hai bát hương sứ cổ Trung Hoa, miệng lợi chậu, đường kính 25cm, vẽ lưỡng long chầu nguyệt.

Hai bát hương tạo tác từ hai hòn đá nguyên khối đặt trên hai bàn thờ ở hai gian đầu hội.

Một mâm bồng gỗ sơn son có kích thước lớn.

Một hộp gỗ sơn màu nâu đen để đựng, bảo quản các văn bản như văn cúng.

Hai đòn khiêng kiệu chạm nổi hoa lá cách điệu, sơn màu đen trên nền sơn đỏ.

Hình ảnh Nhà thờ chi III dòng họ Nguyễn Đức

Nhà thờ chi III dòng họ Nguyễn Đức

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật